Sẽ ban hành nhiều chính sách để hỗ trợ nạn nhân trong các vụ mua bán người
(binhthuan.gov.vn) Luật Phòng, chống mua bán người được
Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 9 thông qua vào ngày
29/3/2011, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2012.
Việc ban hành đạo luật chuyên ngành về phòng, chống
mua bán người tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các cơ
quan chức năng trong đấu tranh phòng, chống mua bán người,
hỗ trợ nạn nhân bị mua bán và thể hiện quyết tâm
của Đảng và Nhà nước ta trong thực hiện cam kết quốc
tế của Việt Nam, góp phần thúc đẩy và bảo vệ quyền
con người trong công tác phòng, chống mua bán người. Tuy
nhiên, quá trình thi hành Luật, đã phát sinh nhiều vấn
đề bất cập đòi hỏi cần được kịp thời sửa đổi,
bổ sung các quy định của Luật nhằm tăng cường hỗ
trợ nạn nhân trong các vụ mua bán người.
Theo kết quả tổng kết thi hành Luật Phòng, chống mua
bán người, công tác điều tra, truy tố, xét xử tội
phạm mua bán người đã đạt được nhiều kết quả, cụ
thể là: Từ khi luật có hiệu lực thi hành (ngày
01/01/2012) đến ngày 15/02/2023, tổng số vụ án về mua
bán người được khởi tố là 1.744 vụ với 3.059 bị
can; Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý theo trình tự
sơ thẩm 1.661 vụ với 3.209 bị cáo; đã xét xử 1.634 vụ
với 3.137 bị cáo (đạt tỉ lệ 98,4% về số vụ và
97,8% số bị cáo). Việc xác định nạn nhân và hỗ trợ
nạn nhân bị mua bán đã đạt được nhiều kết quả,
góp phần bảo vệ quyền con người và bảo vệ nạn
nhân. Theo đó, từ năm 2012 đến tháng 02/2023, đã tổ
chức tiếp nhận, hỗ trợ 7.962 nạn nhân của tội phạm
mua bán người.
Kết quả nêu trên cho thấy, việc triển khai thi hành Luật
Phòng, chống mua bán người trong thời gian qua đã giúp
kiềm chế sự gia tăng của tệ nạn mua bán người, góp
phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
tăng cường quản lý Nhà nước về phòng, chống mua bán
người và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi và kết quả đã
đạt được, sau 12 năm triển khai thi hành Luật Phòng,
chống mua bán người, đã đặt ra yêu cầu cần thiết
phải tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật này nhằm thể
chế hóa quan điểm của Đảng về công tác phòng, chống
mua bán người; bảo đảm tính thống nhất của hệ thống
pháp luật và tương thích với điều ước quốc tế;
phát huy vai trò phòng, chống mua bán người từ cơ sở và
giải quyết những tồn tại, khó khăn, vướng mắc, bất
cập trong quá trình thực hiện Luật Phòng, chống mua bán
người năm 2011, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công
tác phòng, chống mua bán người hiện nay và trong thời
gian tới. Trong đó, đáng chú ý, dự thảo sửa đổi, bổ
sung Luật Phòng, chống mua bán người do Bộ Công an chủ
trì soạn thảo đã đề xuất nhiều chính sách để hỗ
trợ nạn nhân trong các vụ mua bán người. Cụ thể như
sau:
Về hỗ trợ nạn nhân, người đang trong quá trình xác
định là nạn nhân
Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung chế độ hỗ trợ
người đang trong quá trình xác định là nạn nhân được
hưởng: Hỗ trợ về nhu cầu thiết yếu và chi phí đi
lại; Hỗ trợ y tế; Hỗ trợ tâm lý; Trợ giúp pháp lý;
Hỗ trợ chi phí phiên dịch trong quá trình xác định nạn
nhân. Đồng thời, nâng cao hơn chế độ hỗ trợ đối
với nạn nhân so với quy định của Luật Phòng, chống
mua bán người năm 2011 theo hướng: Tất cả nạn nhân có
nguyện vọng trở về nơi cư trú được hỗ trợ các
khoản chi phí đi lại và tiền ăn để trở về nơi cư
trú (Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 quy định
chỉ nạn nhân không có khả năng chi trả tiền tàu xe và
tiền ăn trong thời gian đi đường thì mới được hỗ
trợ); Cần được chăm sóc y tế để phục hồi sức
khỏe thì được xem xét hỗ trợ chi phí khám, chữa bệnh;
Được hỗ trợ để ổn định tâm lý trong thời gian lưu
trú tại cơ sở trợ giúp xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ
nạn nhân; trường hợp nạn nhân không lưu trú tại cơ
sở trợ giúp xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân thì
được hỗ trợ để ổn định tâm lý trong thời gian 90
ngày; Được trợ giúp pháp lý; Khi trở về nơi cư trú
được xem xét hỗ trợ học nghề, tạo điều kiện để
có việc làm, ổn định cuộc sống; Khi trở về nơi cư
trú được hỗ trợ một lần tiền trợ cấp khó khăn
ban đầu; Nếu có nhu cầu vay vốn để sản xuất, kinh
doanh được xem xét cho vay tại Ngân hàng Chính sách xã
hội theo các chính sách tín dụng ưu đãi theo quy định
của pháp luật; Được hỗ trợ chi phí phiên dịch trong
thời gian lưu trú tại cơ sở trợ giúp xã hội hoặc cơ
sở hỗ trợ nạn nhân. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung
quy định về cơ quan, tổ chức thực hiện việc hỗ trợ;
cơ sở trợ giúp xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân.
Việc sửa đổi, bổ sung này nhằm cụ thể hóa chính
sách về quy định chế độ hỗ trợ người đang trong
quá trình xác định là nạn nhân và hoàn thiện quy định
về quyền của nạn nhân, người đang trong quá trình xác
định là nạn nhân bảo đảm khắc phục những bất cập
thời gian qua, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
của Việt Nam hiện nay cũng như trong thời gian tới, phù
hợp với cam kết của Việt Nam liên quan đến bảo đảm,
bảo vệ quyền con người, quyền của nạn nhân, người
đang trong quá trình xác định là nạn nhân.
Về tiếp nhận, xác minh, xác định và bảo vệ nạn
nhân
So với Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, dự
thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về
trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong giải cứu,
tiếp nhận, xác minh nạn nhân đang ở nước ngoài cũng
như tiếp nhận, xác minh và trao trả người nước ngoài
bị mua bán tại Việt Nam, cụ thể:
Bổ sung quy định về giải cứu, tiếp nhận, xác minh nạn
nhân đang ở nước ngoài với nội dung cụ thể: Cơ quan
đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự hoặc
cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh
sự của Việt Nam ở nước ngoài (gọi chung là cơ quan
đại diện Việt Nam ở nước ngoài), khi tiếp nhận thông
tin, tài liệu về người là nạn nhân do cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài, tổ chức quốc tế, cơ quan chức
năng của Việt Nam ở trong nước trao đổi hoặc do chính
họ, người biết việc đến trình báo, thực hiện các
công việc sau: Trường hợp có thông tin cho biết người
đó chưa được giải cứu thì thông báo ngay cho cơ quan
có thẩm quyền của nước sở tại để phối hợp kiểm
tra, xác minh và tổ chức giải cứu nếu xác định nguồn
thông tin có căn cứ; trường hợp người đó đã được
giải cứu hoặc người tự khai là nạn nhân đến trình
báo tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thì
tiến hành kiểm tra, xác minh thông tin, thu thập tài liệu
liên quan, phối hợp với cơ quan chức năng nước sở tại
thực hiện hỗ trợ nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân và
cấp giấy xác nhận nạn nhân, cấp giấy tờ xuất nhập
cảnh theo quy định; Ngay sau khi nhận được đề nghị
xác minh của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài
quy định tại điểm b khoản 1 Điều này, các cơ quan
chức năng ở trong nước có trách nhiệm tổ chức xác
minh, trả lời cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài
và phối hợp tổ chức cấp giấy tờ cần thiết, làm
thủ tục đưa những người này về nước; Trường hợp
thỏa thuận quốc tế có quy định về việc trao đổi
thông tin trực tiếp, hợp tác về phòng, chống mua bán
người giữa cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, tổ
chức quốc tế với các cơ quan chức năng của Việt Nam
ở trong nước thì thực hiện theo khuôn khổ thỏa thuận
quốc tế đó.
Bổ sung quy định về tiếp nhận, xác minh và trao trả
người nước ngoài bị mua bán tại Việt Nam với nội
dung cụ thể: Khi nhận được thông tin, tài liệu về
người nước ngoài bị mua bán tại Việt Nam do cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài, tổ chức quốc tế, cơ
quan, tổ chức trong nước trao đổi hoặc do người biết
việc đến trình báo, cơ quan tiếp nhận thông tin có
trách nhiệm báo ngay cho cơ quan Công an cấp tỉnh nơi nạn
nhân bị giữ để xác minh, điều tra, giải cứu. Trường
hợp họ đã được giải cứu hoặc khai báo là bị mua
bán tự trình báo thì Cơ quan Công an, Bộ đội Biên
phòng, Cảnh sát biển nơi giải cứu nạn nhân hoặc cơ
quan Công an (cấp xã, huyện, tỉnh) nơi tiếp nhận người
khai báo là bị mua bán thực hiện việc hỗ trợ nhu cầu
thiết yếu cho họ nếu thấy cần thiết và chuyển ngay
họ đến Cơ quan quản lý nhà nước về Lao động -
Thương binh và Xã hội cấp huyện nơi họ được giải
cứu hoặc nơi gần nhất họ khai báo về việc bị mua
bán. Khi có đủ căn cứ xác định người được giải
cứu, người tự trình báo là nạn nhân thì cơ quan giải
cứu, cơ quan tiếp nhận trình báo cấp Giấy xác nhận
nạn nhân bị mua bán theo thẩm quyền trước khi chuyển
giao; Cơ quan quản lý nhà nước về Lao động - Thương
binh và Xã hội cấp huyện sau khi tiếp nhận người nước
ngoài bị mua bán tại Việt Nam tiến hành hỗ trợ theo
quy định và thông báo cho Cơ quan quản lý nhà nước về
Ngoại vụ cấp tỉnh, Cơ quan quản lý nhà nước về Xuất
nhập cảnh cấp tỉnh thực hiện các công việc để trao
trả về nước mà họ là công dân hoặc thường trú; Cơ
quan chức năng của Bộ Ngoại giao khi nhận được công
hàm của cơ quan đại diện ngoại giao của nước mà nạn
nhân là công dân (hoặc thường trú) trả lời đồng ý
nhận trở về, kèm theo giấy tờ có giá trị xuất nhập
cảnh đã được cấp cho nạn nhân, có trách nhiệm thống
nhất với phía nước ngoài về các vấn đề để đưa
nạn nhân về nước, sau đó thông báo bằng văn bản và
chuyển giấy tờ xuất, nhập cảnh của nạn nhân cho Cơ
quan có thẩm quyền của Bộ Công an; Cơ quan có thẩm
quyền của Bộ Công an có trách nhiệm thực hiện cấp
thị thực, chứng nhận tạm trú cho nạn nhân, thông báo
kế hoạch đưa nạn nhân về nước cho Cơ quan Quản lý
xuất nhập cảnh Công an cấp tỉnh, Cơ quan quản lý nhà
nước về Lao động - Thương binh và Xã hội cấp tỉnh
nơi đang lưu giữ nạn nhân; Công an cửa khẩu sân bay
quốc tế hoặc Bộ đội Biên phòng cửa khẩu đường bộ
nơi nạn nhân sẽ xuất cảnh; các tổ chức quốc tế
(nếu có liên quan) để phối hợp đưa nạn nhân về
nước; Cơ quan quản lý nhà nước về Lao động - Thương
binh và Xã hội cấp tỉnh nơi lưu giữ nạn nhân chỉ đạo
cơ sở trợ giúp xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân
đưa nạn nhân tới cửa khẩu và phối hợp với các cơ
quan liên quan thực hiện việc đưa nạn nhân về nước.
Bổ sung về đối tượng bảo vệ gồm: Nạn nhân; Người
đang trong quá trình xác định là nạn nhân; Người thân
thích của nạn nhân, người đang trong quá trình xác định
là nạn nhân.
Sửa đổi, bổ sung quy định về tiếp nhận, xác minh nạn
nhân tự đến trình báo; tiếp nhận, xác minh nạn nhân
được giải cứu; tiếp nhận, xác minh nạn nhân từ nước
ngoài trở về; căn cứ để xác định nạn nhân; giải
cứu, bảo vệ nạn nhân, người đang trong quá trình xác
định nạn nhân; các biện pháp bảo vệ và thẩm quyền
áp dụng.
Việc sửa đổi, bổ sung này nhằm khắc phục những khó
khăn, vướng mắc về tiếp nhận, xác minh, xác định và
bảo vệ nạn nhân trong thời gian qua; đồng thời, bảo
đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, thống nhất với
quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, tố
cáo./.
Hữu Tri (tổng hợp)